Sự tích bánh chưng – bánh giầy [Truyện truyền thuyết Việt Nam]

Câu chuyện Sự tích bánh chưng – bánh giầy

Sự tích bánh chưng – bánh giầy (hay còn gọi sự tích bánh chưng [1] bánh dày [2]) giải thích nguồn gốc của hai thứ bánh cổ truyền và phản ánh quan niệm sơ khai của người xưa về vũ trụ: trời tròn, đất vuông.

Ngoài ra, cũng như nhiều truyện cổ dân gian khác, câu chuyện có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về nền tảng đạo đức của dân tộc: đó là tình cảm gắn bó thiết tha với tổ tông, với cội nguồn dân tộc và lòng thành kính biết ơn đời đời tổ tiên, ông cha chúng ta đã gây dựng lên non sông đất nước.

Uống nước nhớ nguồn
– Tục ngữ Việt Nam –

1. Ngày đó, vua Hùng trị vì [3] đất nước. Thấy mình đã gìa, sức khỏe ngày một suy yếu, vua có ý định chọn người nối ngôi [4]. Vua có cả thảy hai mươi hai người con trai, người nào cũng đã khôn lớn và tài trí hơn người. Vua bèn quyết định mở một cuộc thi để kén chọn.

Vua Hùng cho hội họp tất cả các hoàng tử [5] lại. Vua truyền bảo:

– Cha biết mình gần đất xa trời [6]. Cha muốn truyền ngôi cho một trong số anh em các con. Bây giờ mỗi con hãy làm một món ăn lạ để cúng tổ tiên [7]. Ai có món ăn quý vừa ý ta thì sẽ được ta chọn.

Nghe vua cha phán truyền thế, các hoàng tử thi nhau cho người đi khắp mọi nơi lùng kiếm thức ăn quý. Họ lặn lội lên ngàn [8], xuống biển không sót chỗ nào.

2. Trong số hai mươi hai hoàng tử, có chàng Liêu là hoàng tử thứ mười tám. Mồ côi mẹ từ nhỏ, chàng Liêu từng sống nhiều ngày cô đơn. Chẳng có ai giúp đỡ chàng trong việc lo toan tìm kiếm món ăn lạ. Chỉ còn ba ngày nữa là đến kỳ thi mà Liêu vẫn chưa có gì. Đêm hôm đó, Liêu nằm gác tay lên trán lo lắng, suy nghĩ rồi ngủ quên lúc nào không biết. Liêu mơ mơ màng màng thấy có một vị nữ thần [9] từ trên trời bay xuống giúp chàng. Nữ thần bảo:

– To lớn trong thiên hạ [10] không gì bằng trời đất, của báo nhất trần gian [11] không gì bằng gạo. Hãy đem vo [12] cho tôi chỗ nếp này, rồi kiếm cho tôi một ít đậu xanh.

Rồi Liêu thấy thần lần lượt bày ra những tàu lá rộng và xanh. Thần vừa gói vừa giảng giải:

– Bánh này giống hình mặt đất. Đất có cây cỏ, đồng ruộng thì màu phải xanh xanh, hình phải vuông vắn. Trong bánh phải cho thịt, cho đỗ để lấy ý nghĩa đất chở cầm thú [13], cỏ cây… Rồi đem thứ nếp trắng đồ [14] lên cho dẻo, giã ra làm thứ bánh giống hình trời: màu phải trắng, hình phải tròn và khum khum như vòm trời…

Tỉnh dậy, Liêu bắt đầu làm bánh y như trong giấc mộng.

3. Ngày các hoàng tử đem các món ăn đến dự thi là một ngày náo nhiệt nhất ở Phong Châu. Người đông nghìn nghịt. Nhân dân các nơi náo nức về dự một cái Tết tưng bừng hiếm có.

Đúng vào lúc mặt trời mọc, vua Hùng đi kiệu đến làm lễ tổ tiên. Chiêng trống cờ quạt thật là rộn rã. Tất cả trông chờ kết quả cuộc chấm thi.

Nhưng tất cả các món “nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê” của các hoàng tử đều không thể bằng thứ bánh quê mùa [15] của Liêu.

Sau khi đã nếm xong, vua Hùng rất ngạc nhiên, cho đòi Liêu lên hỏi cách thứ làm bánh. Hoàng tử cứ thực tâu lên, không quên nhắc lại giấc mộng lạ của mình.

Trưa hôm ấy, vua Hùng trịnh trọng tuyên bố hoàng tử thứ mười tám được giải nhất và được truyền ngồi. Vua cầm hai thứ bánh giơ lên cho mọi người xem và phán rõ:

– Hai thứ bánh này bày tỏ được lòng hiếu thảo của con cháu, tôn [16] ông bà tổ tiên như Trời Đất, nhưng những hạt ngọc ấy mọi người đều làm ra được. Phải chăng đó không phải là những món ăn ngon và quý nhất để ta dâng cúng tổ tiên…

Từ đó thành tục lệ [17], hàng năm cứ đến ngày Tết, mọi người đều làm hai thứ bánh đó, gọi là bánh chưng bánh giầy, để thờ cúng tổ tiên.

Hoàng tử Liêu sau được làm vua, tức Hùng Vương thứ bảy.

Câu chuyện Sự tích bánh chưng – bánh giầy – Theo Nguyễn Đổng Chi
Nguồn: Kể chuyện 2, trang 75, NXB Giáo dục – 1982
– TruyenDanGian.Com –

Chú giải trong truyện Sự tích bánh chưng – bánh giầy

  1. Bánh chưng: bánh gạo nếp hình vuông, có nhân đậu xanh và thịt lợn hoặc đường, gói bằng lá dong.
  2. Bánh dày (bánh giầy): bánh làm bằng xôi nếp giã thật mịn, hình tròn dẹt
  3. Trị vì: (vua) cai trị một đất nước.
  4. Nối ngôi: lên ngôi vua thay vua trước đã chết (hoặc từ bỏ ngôi vua).
  5. Hoàng tử: con vua.
  6. Gần đất xa trời: ý nói không còn sống được bao lâu nữa, sắp qua đời.
  7. Tổ tiên: ông cha từ đời này qua đời khác.
  8. Ngàn: rừng núi.
  9. Nữ thần: vị thần đàn bà.
  10. Thiên hạ: toàn thể xã hội loài người.
  11. Trần gian: cõi đời, khắp trên đời.
  12. Vo: xát gạo bằng tay vào nước cho sạch cám.
  13. Cầm thú: chim chóc và động vật, ý nói ngoài động vật nói chung.
  14. Đồ: nấu chín bằng hơi nước (gạo, ngô, đỗ,…).
  15. Quê mùa: mộc mạc, giản dị (như cuộc sống ở nông thôn).
  16. [16] Tôn: đưa lên địa vị cao quý.
  17. Tục lệ: những điều mọi người trong xã hội cùng làm đã thành thói quen trong sinh hoạt từ lâu đời.

Lưu ý: Cách viết bánh giầy hay bánh dày vẫn gây ra nhiều tranh cãi. Theo nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì từ “bánh giầy” chính xác hơn, tuy nhiên đại đa số mọi người đều dùng từ “bánh dày” để chỉ loại bánh này của Lang Liêu.

4 bình luận về “Sự tích bánh chưng – bánh giầy [Truyện truyền thuyết Việt Nam]”

Viết một bình luận